Tội phạm và hình phạt là hai khái niệm cơ bản của pháp luật hình sự, luôn luôn gắn liền với nhau và có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời. Khi một người được coi là đã thực hiện tội phạm thì người đó phải chịu hình phạt. Ngược lại, hình phạt cũng không được áp dụng nếu trong trường hợp đang xem xét không xảy ra tội phạm.
Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Điều 30 của BLHS 2015 quy định
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.
Quy định về hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện qua các khung hình phạt được liệt kê tại Điều 175 BLHS 2015.
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Khung hình phạt cơ bản đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 175 BLHS 2015)
Căn cứ theo khoản 1 Điều 175 BLHS 2015, người phạm tội phải chịu mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trong cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 175 BLHS 2015 được xây dựng là cấu thành vật chất. Dấu hiệu định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được quy định tại khoản 1 Điều 175 là dấu hiệu có ý nghĩa trong việc định tội. Trong cấu thành tội phạm cơ bản cũng quy định về trường hợp hậu quả của tội phạm khi chưa đạt mức định lượng mà Điều 175 đặt ra với tình tiết định tội “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Đối với tình tiết định tội “… hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”, có thể hiểu rằng nếu trước đó tội phạm đã bị kết án về một trong các tội sau đây: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội cưỡng đoạt tài sản, Tội cướp giật tài sản, Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tfai sản chưa được xóa án tích thoe quy định của Điều 69 BLHS mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó (không bao gồm các hành vi được liệt kê trong tội khác cũng tại điều luật đó).
Trong khung hình phạt, các chế tài được quy định khá cụ thể với mức phạt tối thiểu và tối đa của khung hình phạt “cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt từ từ 06 tháng đến 03 năm”. Cho đến nay, quy định về hình phạt này vẫn đáp ứng được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế. Ngoài ra, khi người phạm tội bị áp dụng khoản 1 Điều 175 BLHS 2015 thì tùy thuộc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 BLHS mà Tòa án có thể lựa chọn một trong ba loại hình phạt chính với mức chế tài từ tối thiểu đến tối đa cho phù hợp với việc giáo dục, cải tạo, răn đê đối với người phạm tội.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 175 BLHS 2015)
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng tại khoản 2 Điều 175 BLHS 2015, ta có thể khẳng định đây là khung hình phạt thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Mức hình phạt cao nhất được quy định trong khoản 1 điều này là phạt từ đến 07 năm. Khoản 1 Điều khoản này quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi có một trong các tình tiết định khung tăng nặng: Có tổ chức, Có tính chất chuyên nghiệp, Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức, Dùng thủ đoạn xảo quyệt, Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tái phạm nguy hiểm.
- “Phạm tội có tổ chức” là “hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS 2015). Đây là phương thức phạm tội đặc biệt phân biệt với phương thức phạm tội riêng lẻ hoặc với các phương thức phạm tội dưới các hình thức đồng phạm khác. Phạm tội có tổ chức có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia việc thực hiện tội phạm do đó, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ cao hơn so với tội phạm riêng lẻ. Hình thức phạm tội có tổ chức đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thể hiện ở việc có sự cấu kết chặt chẽ của những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội có sự phân công vai trò nhất định trong hoạt động phạm tội. Đồng thời, những người cùng tham gia việc thực hiện tội phạm còn hỗ trợ hoạt động của những đồng phạm khác. Họ có sự thống nhất về lý trí, ý chí và quyết tâm thực hiện tội phạm. Biểu hiện của tình tiết phạm tội có tổ chức đối với tội phạm này có thể là liên hệ, phân công công việc, phân công thực hiện hành vi gian dối,…
- “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” có thể hiểu là người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định khi thực hiện công vụ. Cũng có những trường hợp có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được tham gia thực hiện một công vụ. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có chức vụ, quyền hạn thường dễ tạo lập niềm tin với người khác. Từ đó, họ có thể dễ dàng có được các gaio dịch hoặc được chuyển giao tài sản một cách hợp pháp nhưng lại không thực hiện được hợp đồng và có hành vi chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đó.
- “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” có thể được hiểu là người phạm tội sử dụng các mánh khỏe, cách thức, thủ đoạn gian xảo, khó nhận biết để che giấu hành vi chiếm đoạt làm cho người bị hại khó lường trước để đề phòng. Thủ đoạn có thể là: nhận hàng về sửa chữa sau đó thay đổi các linh kiện tốt, đắt tiền bằng các linh kiện kém chất lượng hơn nhằm kiếm phần chênh lệch giá trị tài sản,…
- “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 53 BLHS 2015. Ở đây, người phạm tội cho thấy ngoài vấn đề nhân thân xấu, người phạm tội thuộc tình tiết tái phạm nguy hiểm còn thể hiện tính chất khó giáo dục, cải tạo, liên tục có hành vi phạm tội khi chưa được xóa án tích với hành vi phạm tội trước đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội. Trường hợp áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm cho thấy người phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn, cần thiết áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn mới đủ tính răn đe, giao dục, phòng ngừa chung đối với tội phạm.
- “Có tính chất chuyên nghiệp” là cố ý phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ 5 lần trở lên không phân biệt đã bị truy cứ trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích hoặc người phạm tội đều lấy các lần lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 175 BLHS 2015)
Khoản 3 của Điều 175 BLHS 2015 được nhà làm luật xây dựng là tội phạm rất nghiêm trọng. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tình tiết định khung tăng nặng này là tình tiết mang tính chất định lượng đã được các nhà làm luật quy định rõ giá trị tài sản bị chiếm đoạt để tạo điều kiện cho người áp dụng pháp luật vận dụng đứng đắn, đảm bảo tính khách quan, rõ ràng minh bạch. Đối với trường hợp này, mức hình phạt được áp dụng là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Khung hình phạt tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 175 BLHS 2015)
Tình tiết tăng nặng trong trường hợp này là “Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” với mức hình phạt được áp dụng là “bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm”. So với BLHS 1999, mức hình phạt tù chung thân đã bị loại bỏ. Điều này cho thấy tính nhân văn, thể hiện quyền con người của bộ luật nhưng cũng vẫn thể hiện tính phân hóa trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này.
Hình phạt bổ sung (khoản 5 Điều 175 BLHS 2015)
Hình phạt bổ sung có thể được áp dụng là hình phạt tiền với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm; hình phạt bổ sung tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể bị áp dụng cả hai loại hình phạt bổ sung trên hoặc một trong hai. Hình phạt bổ sung có ý nghĩa hỗ trợ, tăng cường hiệu quả, tính răn đe của hình phạt chính nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm.